CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO NGÀNH ĐIỀU DƯỠNG BẬC ĐẠI HỌC GỒM: Phần chuyên môn nghề nghiệp ngành Điều dưỡng được thiết kế theo quy định của Bộ GD&ĐT và nhu cầu của cộng đồng doanh nghiệp, có tổng thời lượng là 131 tín chỉ được phân bổ 8 học kỳ, mỗi học kỳ có DINH DƯỠNG KHOÁNG CHẤT TRONG CHĂN NUÔI. BSTY. Vy Đức Nhật Quang. Trạm thú y thị xã An Nhơn (Trích từ bài đăng trên sách Thông tin KHKT của Hội KHKT thị xã An Nhơn, Số Quý III năm 2015) II. Một số khoáng chất hay sử dụng trong chăn nuôi: 2.1. Canxi (Ca) và Phốtpho (P): 1.Quy định của Luật Hôn nhân và gia đình về cấp dưỡng nuôi con. Cấp dưỡng theo quy định tại khoản 24 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên Tình trạng hiếm muộn ở nước ta đang nằm trong mức báo động. Hiếm muộn gây ảnh hưởng rất lớn tới hạnh phúc hôn nhân của các cặp vợ chồng nó sẽ có quy luật riêng của nó, và quy luật ấy được lập trình sẵn Website cung cấp kiến thức dinh dưỡng trị liệu Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30/7/2021 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước Dựa vào các thông tin được cung cấp dưới đây để trả lời các câu từ 112 đến 114 Nông nghiệp hữu cơ Nông nghiệp hữu cơ là xu hướng tất yếu để đảm bảo nền nông nghiệp phát triển bền vững. canh tác đúng cách, đúng thời điểm để đảm bảo dinh dưỡng và sự 🆘 Pháp luật hiện hành chưa có quy định về việc nộp phí rút hồ sơ nên bạn không cần nộp phí khi thực hiện thủ tục rút hồ ⚙️ Tòa án quận Cầu Giấy tôn trọng sự thỏa thuận của hai vợ chồng về người trực tiếp nuôi và mức cấp dưỡng nuôi con sau khi ly eqs7KRU. Mức cấp dưỡng nuôi con? Cách tính tiền cấp dưỡng nuôi con? Quy định về việc cấp dưỡng cho con khi ly hôn? Giải quyết trường hợp không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, thay đổi mức cấp dưỡng?Cấp dưỡng là trách nhiệm của người có nghĩa vụ cấp dưỡng với người được cấp dưỡng. Cấp dưỡng được hiểu là người có nghĩa vụ cấp dưỡng đóng góp một khoản tiền hoặc tài sản của chính người cấp dưỡng để đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày hoặc hàng tháng của người được cấp dưỡng. Người có nghĩa vụ cấp dưỡng là cha hoặc mẹ mà một trong hai người không thực hiện chăm sóc trực tiếp người được cấp dưỡng hàng ngày. Mục lục bài viết 1 1. Xác định mức cấp dưỡng nuôi con khi bố mẹ ly hôn 2 2. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn 3 3. Gặp khó khăn sau ly hôn có được yêu cầu cấp dưỡng? 4 4. Thủ tục yêu cầu cấp dưỡng sau ly hôn 5 5. Giải quyết trường hợp không cấp dưỡng nuôi con 6 6. Quy định về thay đổi mức cấp dưỡng sau ly hôn 1. Xác định mức cấp dưỡng nuôi con khi bố mẹ ly hôn Người được cấp dưỡng bao gồm người dưới mười tám tuổi dưới vị thành niên, người trên mười tám tuổi nhưng không có khả năng lao động ví dụ như những người bị khuyết tật hoặc khó khăn về nhận thức hoặc làm chủ hành vi của mình ví dụ người tâm thần, các đối tượng trên đều không có khả năng về kinh tế để tự nuôi bản thân mình, cần người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật dạy dỗ và chăm sóc. Như vậy, Cha mẹ đều là người đại diện theo pháp luật của con nên việc cấp dưỡng là đương nhiên theo quy định Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Luật sư tư vấn pháp luật hôn nhân trực tuyến qua tổng đài Cấp dưỡng nuôi có sau khi ly hôn là nghĩa vụ đương nhiên của cha hoặc mẹ; pháp luật không phân biệt người trực tiếp nuôi con có khả năng kinh tế hay không, người có nguồn kinh tế cao hoặc thấp đều phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng .Căn cứ Điều 116 và Điều 117 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định cụ thể về mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng cho con, Luật Dương gia đưa ra một số nội dung sau về mức cấp dưỡng nuôi con? Cách tính tiền cấp dưỡng nuôi con? Theo quy đinh luật hiện hành, chưa có bất kỳ một văn bản quy định pháp luật nào có quy định cụ thể về mức tiền cấp dưỡng nuôi con là bao nhiêu. Có người nhận cấp dưỡng nuôi con một triệu/tháng hoặc hai triệu hoặc nhiều mức cấp dưỡng khác nhau do mỗi hoàn cảnh, môi trường và điều kiện cũng như mức thu nhập của người không trực tiếp nuôi con. . Để trả lời cho câu hỏi mức cấp dưỡng được quy định như thế nào? Các bạn có thể tham khảo ý kiến sau + Hiện tại, mức cấp dưỡng nuôi con được xác định trên cơ sở tự nguyện, tức là sự thỏa thuận của người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng và người giám hộ của người được cấp dưỡng trong trường hợp cha mẹ không đủ điều kiện để chăm sóc nuôi con. Trên tinh thần tự nguyện, các bên thỏa thuận về mức cấp dưỡng dựa trên các cơ sở hợp lý về mức thu nhập và chi tiêu của con được các bên liệt kê theo hàng ngày hoặc hàng tháng. + Trong trường hợp, các bên không đạt tự nguyện thỏa thuận xung đột, tranh chấp về mức cấp dưỡng thì có thể yêu cầu tòa án xem xét và giải quyết về mức cấp dưỡng sao cho hợp lý và hợp tình. Tòa án xét xử phải dựa theo nhu cầu thiết yếu hàng ngày hoặc hàng tháng của người được cấp dưỡng và mức thu nhập của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. – Đầu tiên dựa vào nguồn thu nhập của người cấp dưỡng. Người cấp dưỡng được coi là có nguồn thu nhập khi họ có khả năng thực tế về mặt kinh tế như người có thu nhập thường xuyên tiền lương, cho thuê, tự kinh doanh, người thu nhập từ tài sản động sản hoặc bất động sản hiện tại hoặc hình thành trong tương lai. Ví dụ như Bạn đang làm việc tại công ty với mức lương năm triệu đồng một tháng, vậy, mức thu nhập thường xuyên của bạn là năm triệu đồng/ một tháng. Bạn có sổ đỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bạn, vậy nguồn tài chính của bạn là đất đai, nhà cửa. – Nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng thường được cá nhân, cơ quan nhà nước xem xét và xác định căn cứ vào mức sinh hoạt trung bình tại địa phương nơi người được cấp dưỡng cư trú được hiểu thường trú hoặc tạm trú hoặc nơi học tập. Mức sinh hoạt bao gồm các chi phí thông thường cần thiết của người được cấp dưỡng như chi phí cho việc ăn uống hàng ngày, chi phí về chỗ ở hoặc nơi ở đang ở thuê hay đã có nhà riêng, chi phí về quần áo, chi phí cho việc học hành bao gồm các khoản học ở trường, học thêm và phục vụ kỹ năng khác,chi phí về khám chữa bệnh và các chi phí khác để bảo đảm cuộc sống của người được cấp dưỡng. – Hoàn cảnh sống của người được cấp dưỡng cũng là yếu tố quyết định về mức cấp dưỡng bạn đang tại nông thôn hay đô thi, ở Việt Nam hay nước ngoài. Khi có lý do chính đáng để thay đổi mức cấp dưỡng để nuôi con thì các bên thỏa thuận lại mức cấp dưỡng. Lý do hợp lý để thay đổi ví dụ tăng khoản tiền sinh hoạt nhưăn, ở, mặc, học, khám chữa bệnh và các chi phí thông thường cần thiết khác. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận lại, trường hợp không đạt thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Trong trường hợp, người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn người có quyền đề nghị cấp dưỡng không yêu cầu hoặc không mong muốn nhận khoản tiền cấp dưỡng từ người không trực tiếp nuôi con cấp dưỡng hoặc người nghĩa vụ cấp dưỡng vì lý do tự mình đủ điều kiện kinh tế nuôi con hoặc vì bất kì lý do khác. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm xem xét và đưa giải thích cho người trực tiếp nuôi con được hiểu rõ về việc ý nghĩa nhà nước quy định về yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là quyền lợi và lợi ích của con để nhằm mục đích bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con và hỗ trợ một phần tài sản cho người cấp dưỡng. Nếu Tòa án xét thấy việc đề nghị không yêu cầu cấp dưỡng của người cấp dưỡng có lý do; hoàn toàn tự nguyện; người trực tiếp nuôi con có đầy đủ về mặt kinh tế, chỗ ở, thời gian chăm sóc….thì Toà án phải tôn trọng sự ý chí của các bên. Căn cứ Điều 117 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định về phương thức cấp dưỡng như sau Nguyên tắc cấp dưỡng trên tinh thần thỏa thuận giữa cha và mẹ, mà các bên thực hiện cấp dưỡng định kỳ hàng tháng hoặc hàng quý bốn tháng một lần, nửa năm nửa tháng một lần, hàng năm hoặc một lần cấp dưỡng đến khi con đủ mười tám tuổi. Các bên có thể thỏa thuận mức cấp dưỡng hoặc phương thức hoặc tạm ngừng cấp dưỡng, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa Sau khi, bản án/quyết định được Tòa án tuyên và có hiệu lực thì các bên nghĩa vụ phải thực hiện/ thi hành án. Trường hợp một trong các bên không thực hiện quy định của Bản án/ Quyết định về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn tự nguyện hoặc thi hành không đầy đủ thì người được hưởng khoản tiền cấp dưỡng có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan. Người yêu cầu gửi tới cơ quan nhà nước có thẩm quyền một bộ hồ sơ đề nghị bao gồm Đơn đề nghị, bản án/ quyết định có hiệu lực pháp luật, giấy tờ về tài sản. Người yêu cầu tới cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện nơi người có nghĩa vụ đang cư trú được hiểu là thường trú và tạm trú buộc người có nghĩa vụ cấp dưỡng theo bản án và quyết định đã được tuyên phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng đó theo quy định của Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014. 2. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn Tóm tắt câu hỏi Em mới sinh con được 4 tháng nhưng do vợ chồng bất hòa nên cả hai muốn ly hôn. Do chồng em có điều kiện hơn nên em muốn chồng em nuôi con. Hai vợ chồng cũng đã thỏa thuận trong đơn ly hôn là để chồng nuôi con. Nhưng nếu đến khi ra Tòa chồng em thay đổi không muốn nuôi con thì ai sẽ là người nuôi con? Nếu em nuôi thì chồng em có phải cấp dưỡng không? Luật sư tư vấn Theo Luật Hôn nhân và gia đình 2014, vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con. Trong trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con khoản 2 Điều 81. Trường hợp con dưới 36 tháng tuổi, về nguyên tắc sẽ được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, tuy nhiên nếu người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con như người cha thì sẽ do người cha nuôi. Đối với trường hợp của bạn, do bạn không có điều kiện để nuôi con nên con sẽ được giao cho người chồng nuôi. Tuy nhiên, nếu chồng bạn từ chối nuôi con và bạn đồng ý nuôi con thì bạn có quyền yêu cầu người chồng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con Điều 82, 83 Luật HN&GĐ 2014. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. 3. Gặp khó khăn sau ly hôn có được yêu cầu cấp dưỡng? Tóm tắt câu hỏi Chào luật sư, tôi muốn hỏi là trong trường hợp sau khi ly hôn mà gặp khó khăn thì có quyền yêu cầu bên còn lại cấp dưỡng không? Chân thành cảm ơn luật sư. Luật sư tư vấn Cần phải xác định trong trường hợp của bạn, bạn muốn bên còn lại cấp dưỡng cho mình hay cấp dưỡng cho con chung của hai người. Với mỗi trường hợp pháp luật sẽ có những quy định khác nhau, cụ thể như sau + Với trường hợp bạn yêu cầu cấp dưỡng cho mình thì Điều 115 Luật hôn nhân và gia đình 2014 có quy định như sau “Khi ly hôn nếu bên khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình.”. Như vậy, việc cấp dưỡng giữa vợ chồng không hiển nhiên được đặt ra mà cần tuân theo một số điều kiện nhất định Thứ nhất Bên được cấp dưỡng khó khăn, túng thiếu, có yêu cầu cấp dưỡng và có lí do chính đáng. Đây là cơ sở quyết định nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi li hôn. Có thể hiểu khó khăn, túng thiếu ở đây là không có đủ khả năng lao động để duy trì cuộc sống của mình. Lý do chính đáng dẫn đến tình trạng đấy phải là những lý do như ốm đau, tai nạn, già yếu,… Nếu có khó khăn, túng thiếu thật sự nhưng không có lí do chính đáng như nghiện hút, cờ bạc, lười biếng… thì sẽ không được cấp dưỡng. Khi người được cấp dưỡng thoả mãn điều kiện trên họ có thể trực tiếp yêu cầu người phải cấp dưỡng hoặc gửi đơn lên Toà án nhờ Toà án bảo vệ quyền lợi cho họ. Thứ hai Bên cấp dưỡng có khả năng cấp dưỡng. Bởi nếu người cấp dưỡng không có khả năng cấp dưỡng, không thể nuôi được bản thân họ thì họ cũng không thể làm điều gì cho người mà họ có nghĩa vụ cấp dưỡng. + Với trường hợp bạn yêu cầu cấp dưỡng cho con chung của hai người thì theo quy định tại Điều 110 Luật hôn nhân và gia đình 2014 “Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con.”. Thứ nhất Đối tượng được cha mẹ cấp dưỡng bao gồm con đẻ và con nuôi chung của hai vợ chồng. Con được cấp dưỡng là con chưa thành niên hoặc nếu đã thành niên thuộc diện không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Theo nguyên tắc chung, cha mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con đến khi con đã thành niên đủ mười tám tuổi. Trong trường hợp con đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản nuôi mình thì cha mẹ vẫn phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đến khi con khỏi bệnh, phục hồi sức khoẻ và có thể lao động tự túc được. Thứ hai Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Quy định này đặt ra là một nghĩa vụ mà cha, mẹ phải thực hiện cho con của mình nên nếu con của hai người thuộc trường hợp phai cấp dưỡng như trên bên còn lại bắt buộc phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. 4. Thủ tục yêu cầu cấp dưỡng sau ly hôn Tóm tắt câu hỏi Lúc làm đơn xin ly hôn tôi không yêu cầu chồng cấp dưỡng. Nhưng trong thời gian nuôi con tôi gặp khó khăn về tài chính và chồng tôi vẫn không trợ cấp 1 khoản nào. Xin hỏi nếu bây giờ tôi làm đơn gửi tòa án xin yêu cầu cấp dưỡng thì tôi phải viết mẫu đơn như thế nào ạ Luật sư tư vấn Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và con; giữa anh, chị, em với nhau; giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột; giữa vợ và chồng . Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác. Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình 2014 “Điều 110. Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con.” Để làm đơn yêu cầu cấp dưỡng cho con sau ly hôn, bạn lên trực tiếp Tòa án nhân dân đã giải quyết ly hôn, viết đơn khởi kiện để yêu cầu cấp dưỡng, đồng thời kèm theo bằng chứng chứng cứ để yêu cầu giải quyết. 5. Giải quyết trường hợp không cấp dưỡng nuôi con Tóm tắt câu hỏi Thưa Luật sư, tôi có vài điều băn khoăn, thắc mắc muốn hỏi, tôi rất mong luật sự tư vấn cho tôi để có thể làm đơn như thế nào phù hợp ạ. Tôi và chồng cũ ly hôn từ năm 2013, về phần cấp dưỡng nuôi con chung anh ta đã ghi trong đơn là hàng tháng sẽ trợ cấp nuôi con là một triệu đồng cho đến khi con đủ 18 tuổi. Sau khi ly hôn đến nay anh ta vẫn cấp dưỡng đầy đủ và thường xuyên đến thăm và đưa con đi chơi. Năm 2014 do trì trệ cấp dưỡng nuôi con không thường xuyên, tôi đã đến thi hành án Thành phố làm đơn yêu cầu gửi vào huyện nơi anh ta đang công tác và đã được cấp dưỡng đầy đủ. Năm 2016 anh ta cưới vợ, sinh con, cuối năm tháng 12/2016 không thấy anh ta gửi tiền cấp dưỡng nữa. Và khi con gái cháu gọi cho bố thì người vợ anh ta thưa máy, thậm chí còn tắt máy và nhắn tin chửi tôi răng cô ta đã cầm thẻ ATM, muốn xin tiền thì xin cô ta. Tôi muốn hỏi luật sư, liệu tôi có thể gửi đơn kiện anh ta đã không cấp dưỡng tiền nuôi con chung không và mẫu đơn đó như thế nào ạ lại phải đến Thi hành án Thành phố ạ. Hay cứ đợi thêm vài tháng nữa. Việc tiền cấp dưỡng nuôi con có thể trừ qua tài khoản của anh ta sang tài khoản ATM của tôi dược không? có cần phải biết và điền số tiền lương hàng tháng anh ta trong đơn không? và cách làm đơn như thế nào?. Rất mong luật sự trả lời sớm và cho tôi những lời tư vấn, tôi xin chân thành cảm ơn.? Luật sư tư vấn Sau khi có quyết định của Tòa án về việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thì người chồng phải thực hiện việc cấp dưỡng của mình cho con theo số tiền mà Tòa án đã quy định dựa trên nhu cầu sinh hoạt của các con và thu nhập thực tế của người này. Trong trường hợp chồng bạn cố tình không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bạn có thể yêu cầu Tòa án buộc chồng bạn thực hiện theo quy định tại Điều 55 Luật hôn nhân gia đình. Về thẩm quyền giải quyết theo Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định như sau “Điều 28. Những tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án 5. Tranh chấp về cấp dưỡng. … “ Bạn chuẩn bị đơn yêu cầu về việc cấp dưỡng gửi lên Tòa án nhân dân cấp huyện nơi chồng bạn cư trú để yêu cầu giải quyết. Trong đơn bạn cần trình bày các thông tin như Họ, tên, địa chỉ của người yêu cầu; tên Tòa án nơi yêu cầu; họ, tên, địa chỉ của người bị yêu cầu; nội dung yêu cầu; ghi rõ ngày, tháng, năm, ký tên hoặc điểm chỉ,…Kèm theo đó phải có bản án, quyết định được yêu cầu và các tài liệu khác có liên quan nếu có. Còn vấn đề về phương thức cấp dưỡng mà bạn quan tâm thì sẽ do hai bên tự thỏa thuận việc cấp dưỡng theo phương thức nào hoặc trường hợp bạn muốn chồng bạn cấp dưỡng cho con bạn qua hình thức chuyển tiền qua tài khoản thì bạn có thể đề nghị với Tòa án để Tòa án xem xét. 6. Quy định về thay đổi mức cấp dưỡng sau ly hôn Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng. Đây là nghĩa vụ của bậc làm cha mẹ, dù họ không thể tiếp tục cuộc sống vợ chồng thì họ vẫn phải thực hiện trách nhiệm “nuôi dưỡng” dưới dạng “cấp dưỡng” nhằm đảm bảo cho con cái họ được bù đắp sự hụt hẫng về mặt tinh thần và đảm bảo cuộc sống tối thiểu của con họ. Người không trực tiếp nuôi con có các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, trong đó có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Vậy mức cấp dưỡng nuôi con như thế nào là hợp lý? Theo quy định tại Điều 116 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì “1. Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. 2. Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.” Theo đó, mức cấp dưỡng do hai vợ chồng thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người cấp dưỡng ngành nghề công việc, điều kiện vật chất,… và nhu cầu thiết yếu của con những chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của con để đảm bảo cho con được phát triển đầy đủ về vật chất và điều kiện ăn, mặc, ở, học hành, khám, chữa bệnh và những chi phí sinh hoạt thông thường, không thể thiếu cho cuộc sống của mỗi người,…. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì tuỳ vào từng trường hợp cụ thể mà Toà án quyết định mức cấp dưỡng nuôi con phù hợp. Nếu có lý do chính đáng thì hai bên có thể thỏa thuận để tăng hoặc giảm mức cấp dưỡng. Lí do chính đáng đó có thể là người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn hơn do bị bệnh tật, tai nạn, không còn việc làm nên không có lương hoặc có thu nhập hợp pháp khác, hay con cái ngày càng lớn, nhu cầu chi tiêu cho việc học hành ngày càng nhiều, giá cả thị trường có sự biến động,… Trong trường hợp không thỏa thuận được, các bên có thể gửi đơn đến Tòa án yêu cầu giải quyết. Nghĩa vụ cấp dưỡng cho con khi cha mẹ ly hôn là một nghĩa vụ pháp lý mà cha hoặc mẹ bắt buộc phải làm đối với con, nếu con là người chưa thành niên hoặc đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, khi không là người trực tiếp nuôi dưỡng con sau khi đã chấm dứt quan hệ hôn nhân bằng việc đóng góp tiền hoặc hiện vật tương ứng với nhu cầu thiết yếu của con đồng thời phù hợp với khả năng thực tế của mình để bù đắp những tổn thất về mặt vất chất cho con khi con không được chung sống đồng thời với cha và mẹ. 1. Cơ sở pháp lý và vướng mắc trong thực tiễn Đối tượng được cấp dưỡng Điều 110 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định “Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con”. Đối tượng được cấp dưỡng gồm Con chưa thành niên và con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Theo quy định tại khoản 1 Điều 21 BLDS năm 2015 thì người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi. Trường hợp cha, mẹ ly hôn khi con chưa đủ 18 tuổi, người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ phải chi trả tiền cấp dưỡng để đảm bảo quyền lợi cho con cho đến khi con trưởng thành. Tuy nhiên Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 cũng như Luật Trẻ em năm 2016, được sửa đổi, bổ sung năm 2018, không đưa ra khái niệm cụ thể về “nuôi dưỡng” cũng như các tiêu chí để xác định một đứa trẻ sẽ được đảm bảo nuôi dưỡng như thế nào để đáp ứng các điều kiện vật chất tối thiểu, phát triển bình thường. Do đó, trên thực tế, mặc dù có nhiều cha, mẹ có hành vi vi phạm nghĩa vụ “nuôi dưỡng” khi đang sống chung với con nhưng cũng không bị buộc phải cấp dưỡng do không có căn cứ. Đối với con đã thành niên, cha, mẹ vẫn có trách nhiệm phải cấp dưỡng nếu thuộc các trường hợp sau Con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Không có khả năng lao động có thể là do sức khỏe yếu, mất sức lao động, bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự... Tuy nhiên, không có khả năng lao động phải đi kèm với điều kiện không có tài sản để tự nuôi mình. Thực tế, có rất nhiều trường hợp con không có khả năng lao động nhưng vẫn có tài sản để tự nuôi mình. Vậy khi nào thì một người được coi là “không có khả năng lao động” và “không có tài sản để tự nuôi mình”. Hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể để xác định việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Thực tế hiện nay, việc nhận định “không có khả năng lao động” tùy thuộc vào sự đánh giá của Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong từng vụ án cụ thể. Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TANDTC ngày 08/7/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có đề cập đến tiêu chí đánh giá về “mất khả năng lao động”, cụ thể là Người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại không còn khả năng lao động do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng và các trường hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên.... Từ đó, có ý kiến cho rằng, khi xác định nếu người thành niên mà thường xuyên cần phải có người chăm sóc và rơi vào những trường hợp như đã liệt kê thì mới xác định họ “không còn khả năng lao động”. Ý kiến khác lại cho rằng, tại tiểu mục mục I phần B Thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008 của Bộ Tài chính quy định “Người tàn tật, không có khả năng lao động theo hướng dẫn nêu trên là những người thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật về người tàn tật, cụ thể như sau Người tàn tật không có khả năng lao động là người bị tàn tật, giảm thiểu chức năng không thể trực tiếp sản xuất, kinh doanh hoặc người bị khuyết tật, dị tật bẩm sinh không có khả năng tự phục vụ bản thân được cơ quan y tế từ cấp huyện trở lên xác nhận hoặc bản tự khai có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã về mức độ tàn tật không có khả năng lao động”. Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người phụ thuộc đang sống xác nhận những biểu hiện cụ thể về sự tàn tật của người phụ thuộc. Tuy nhiên, khái niệm này chỉ nhằm phân biệt về người tàn tật không có khả năng lao động với người tàn tật vẫn có khả năng lao động. Chúng tôi không đồng ý với các ý kiến nêu trên. Không có tài sản để tự nuôi mình có thể là tài sản gốc nhưng nó không sinh lợi hoặc có sinh lợi và đã được khai thác nhưng vẫn không đủ để đáp ứng các nhu cầu sống thiết yếu, hay có thể có thu nhập nhưng không đáp ứng được các khoản chi tiêu tối thiểu cho cuộc sống. Còn yếu tố “không có khả năng lao động” có thể được đánh giá trên cơ sở họ có thể lao động hay không? Người thất nghiệp có được coi là không khả năng lao động không? Một vấn đề mà chúng tôi đặt ra, đó là đối với con đã thành niên nhưng các con đang là sinh viên của các trường Trung cấp, Cao đẳng, Đại học… thì vấn đề cấp dưỡng đối với các con như thế nào? Trong khi các con đang đi học thì thời gian đâu để các con tự lao động nuôi sống bản thân, mặc dù các con đủ khả năng lao động ở đây tác giả để cập đến điều kiện sức khỏe đủ khả năng lao động của các con thành niên. Mức cấp dưỡng Điều 116 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định “Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết”. Như vậy mức cấp dưỡng có thể được thỏa thuận giữa người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó. Tức là người không trực tiếp nuôi con có thể thỏa thuận mức cấp dưỡng với con hoặc với người đang trực tiếp nuôi con. Mức cấp dưỡng được xác định căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Tuy nhiên, nếu các bên không tự thỏa thuận được thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết. Bên cạnh đó, mức cấp dưỡng này cũng có thể thay đổi do thỏa thuận của các bên, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Trước đây, Nghị quyết số 02/2000/NĐ-HĐTP ngày 23 tháng 12 năm 2000 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hướng dẫn như sau “Tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của con và do các bên thoả thuận. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì tuỳ vào từng trường hợp cụ thể, vào khả năng của mỗi bên mà quyết định mức cấp dưỡng nuôi con cho hợp lý”. Thực tiễn giải quyết tại các Tòa án trước đây và hiện tại thường vận dụng quy định tại khoản 2, phần III của Công văn số 24/1999/KHXX ngày 17/3/1999 của TANDTC, cụ thể là “Toà án phải xem xét đến khả năng kinh tế nói chung và thu nhập nói riêng của người phải đóng góp phí tổn cũng như khả năng kinh tế nói chung và thu nhập nói riêng của người nuôi dưỡng con. Trong đó mức đóng góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con tối thiểu không dưới 1/2 một phần hai mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm xét xử sơ thẩm đối với một người con”. Hiện nay, chưa có văn bản nào quy định cụ thể mức cấp dưỡng cho con sau khi bố mẹ ly hôn nên để xác định mức cấp dưỡng cụ thể, Tòa án thường căn cứ vào chứng từ, hóa đơn... liên quan đến chi phí hợp lý để nuôi dưỡng, chăm sóc con và thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Tuy nhiên, chúng tôi đã đọc và nghiên cứu khá nhiều Bản án, Quyết định của nhiều Tòa án ở các địa phương khác nhau về phần mức cấp dưỡng cho con và thấy rằng các đương sự thỏa thuận và Tòa ấn định mức cấp dưỡng nói chung còn rất thấp, chủ yếu thỏa thuận và ấn định mức cấp dưỡng chung, chung hoặc bằng một tháng lương tối thiểu là chung ... Với mức cấp dưỡng như vậy thì có đáp ứng đủ nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng hay không trong bối cảnh kinh tế xã hội như hiện nay. Tác giả đặt ra giả thiết với mức cấp dưỡng như vậy mà người được cấp dưỡng đang sống tại các địa phương có đời sống “đắt đỏ” như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng… thì sẽ ra sao? Bên cạnh đó, nhiều vụ việc khi xác định mức cấp dưỡng cho con chưa tương xứng với khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Tòa án ấn định mức cấp dưỡng chỉ xem xét thu nhập, khả năng của người có nghĩa vụ mà không xem xét tới nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng. Trẻ em là đối tượng dễ bị tổn thương, trẻ em rất cần được quan tâm, hỗ trợ kịp thời, đúng lúc. Hiện nay Hội bảo vệ quyền trẻ em Việt Nam tập trung bảo đảm quyền được sống còn và quyền được phát triển của trẻ em Bao gồm quyền của trẻ em được sống cuộc sống bình thường và được đáp ứng những nhu cầu cơ bản nhất để tồn tại và phát triển thể chất. Đó là mức sống đủ, có nơi ở, ăn uống đủ chất, được chăm sóc sức khỏe. Trẻ em phải được khai sinh ngay sau khi ra đời; Những điều kiện để trẻ em có thể phát triển đầy đủ nhất về cả tinh thần và đạo đức, bao gồm việc học tập, vui chơi, tham gia các hoạt động văn hóa, tiếp nhận thông tin, tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo. Trẻ em cần có sự yêu thương và cảm thông của cha mẹ để có thể phát triển hài hòa. Theo tác giả, khi giải quyết Tòa án nên mạnh dạn ấn định mức cấp dưỡng nuôi con phù hợp với mức đáp ứng nhu cầu thiết yếu để con có điều kiện vật chất, tinh thần tốt hơn phù hợp với xu thế phát triển của tình hình kinh tế chính trị đất nước Việt Nam nói riêng và toàn thế giới nói chung. Phương thức cấp dưỡng Việc cấp dưỡng được thực hiện theo các phương thức quy định tại Điều 117 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Theo đó, cấp dưỡng được thực hiện theo hai phương thức sau đây Cấp dưỡng theo định kỳ Đây là phương thức ưu tiên và thường được sử dụng trên thực tế. Phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình được quy định rất mềm dẻo, linh hoạt được quy định tại Điều 117 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 tạo điều kiện cho các bên lựa chọn phương thức dễ dàng, thuận lợi, phù hợp nhất trong việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Các bên được thỏa thuận về nghĩa vụ cấp dưỡng bằng tiền hoặc tài sản theo phương thức định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm. Việc lựa chọn phương thức nào trước hết dựa trên sự thỏa thuận giữa các bên, nếu các bên không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết căn cứ vào mức thu nhập của người có nghĩa vụ cấp dưỡng cũng như chi phí cho các nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng trừ trường hợp cấp dưỡng cho con sau khi cha mẹ li hôn theo Nghị quyết 02/2000 của HĐTPTANDTC, khi các bên không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định phương thức cấp dưỡng định kỳ hàng tháng. Cấp dưỡng một lần Phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng một lần được quy định rất cụ thể tại khoản 2 Điều 18 Nghị định 70/2001 của Chính phủ. Theo đó việc nghĩa vụ cấp dưỡng một lần được thực hiện trong 4 trường hợp Nếu người có nghĩa vụ cấp dưỡng có khả năng thực tế và được người cấp dưỡng đồng ý; Theo yêu cầu của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và được Tòa án đồng ý; Theo yêu cầu của người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng thường xuyên có các hành vi phá tán tài sản hoặc cố tính trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng mà hiện có tài sản để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng một lần và được tòa án chấp nhận; Theo yêu cầu của người trực tiếp nuôi con khi vợ chồng ly hôn mà có thể trích phần tài sản được chia của bên có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con thì có thể thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng một lần. Khoản cấp dưỡng một lần có thể gửi tại ngân hàng hoặc giao cho người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ quản lí theo yêu cầu của người có nghĩa vụ cấp dưỡng trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Người được quản lí có nhiệm vụ bảo quản tài sản và chỉ được trích ra để đảm bảo các nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng. Thông thường cấp dưỡng một lần được thực hiện xong thì nghĩa vụ cấp dưỡng sẽ chấm dứt. Tuy nhiên trong một số trường hợp nhất định, người được cấp dưỡng để đảm bảo cuộc sống của mình trong những điều kiện đặc biệt khó khăn vẫn có quyền yêu cầu cấp dưỡng tiếp như trong trường hợp người được cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn trầm trọng do bị tai nạn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo mà người đã thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng một lần có khả năng thực tế để cấp dưỡng ở mức cao hơn thì phải cấp dưỡng bổ sung theo yêu cầu của người được cấp dưỡng. Ngoài ra Điều 117 còn quy định về thay đổi phương thức cấp dưỡng và tạm ngừng cấp dưỡng. Theo đó, “Các bên có thể thỏa thuận thay đổi phương thức cấp dưỡng, tạm ngừng cấp dưỡng trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế mà không có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết”. Tình trạng khó khăn về kinh tế ở đây phải có thật và vì những lí do chính đáng mất mùa, thiên tai, tai nạn, ốm đau… Pháp luật hiện hành chưa có quy định về thời hạn tạm ngừng cấp dưỡng. Theo tác giả, về thời hạn tạm ngừng cấp dưỡng lấy mốc thời hạn 06 tháng sẽ là một khoảng thời gian phù hợp để người có nghĩa vụ có thể khắc phục những khó khăn đồng thời cũng là khoảng thời gian không dài đủ để không ảnh hưởng quá lớn tới nhu cầu của người được cấp dưỡng. Sau thời hạn 06 tháng, theo yêu cầu của người được cấp dưỡng Tòa án sẽ xem xét đánh giá khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng, nếu có lý do thỏa đáng và tùy từng trường hợp cụ thể có thể gia hạn thêm thời gian. Các bên sẽ tự thỏa thuận về việc cấp dưỡng bù cho thời gian đã tạm ngừng, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Thời hạn cấp dưỡng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chỉ quy định về thời điểm chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng tại Điều 114 mà không quy định thời điểm vợ hoặc chồng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con khi vợ chồng ly hôn là bắt đầu từ lúc nào. Vậy Tòa án có ghi thời điểm buộc người không trực tiếp nuôi con cấp dưỡng nuôi con vào quyết định, bản án của Tòa án không. Nếu có thì thời điểm cấp dưỡng nuôi con tính từ lúc nào. Vấn đề này hiện chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể nên thực tiễn đang có nhiều quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất Cho rằng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chỉ có quy định về mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng nuôi con do vợ chồng thỏa thuận. Trường hợp không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì pháp luật không có quy định cụ thể thời điểm vợ hoặc chồng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con khi ly hôn từ lúc nào nên Tòa án không cần phải ghi thời điểm vợ hoặc chồng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con vào quyết định, bản án của Tòa án. Cho nên thời điểm cấp dưỡng nuôi con được tính từ ngày vợ hoặc chồng gửi đơn yêu cầu thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự để yêu cầu thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Quan điểm thứ hai Cho rằng mặc dù chưa có quy định cụ thể trường hợp vợ chồng ly hôn có tranh chấp về cấp dưỡng nuôi con thì thời điểm cấp dưỡng nuôi con được tính từ lúc nào, tuy nhiên theo khoản 1 Điều 482 của BLTTDS năm 2015 thì “Những bản án, quyết định sau đây của Tòa án cấp sơ thẩm được thi hành ngay mặc dù có thể bị kháng cáo, khiếu nại, kháng nghị, kiến nghị a Bản án, quyết định về cấp dưỡng…”. Từ quy định này có thể hiểu nghĩa vụ cấp dưỡng phải được thực hiện ngay khi Tòa án ban hành bản án hoặc quyết định về cấp dưỡng. Vì vậy, khi ra Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của đương sự hoặc ra bản án thì Tòa án cần thiết phải ghi rõ thời điểm cấp dưỡng nuôi con. Thời điểm cấp dưỡng nuôi con tính từ ngày Tòa án lập biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và hòa giải thành hoặc tính từ ngày tuyên án. Cách tính thời điểm như trên sẽ đảm bảo quyền lợi của con hơn là tính từ ngày bản án hoặc quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật hoặc tính từ ngày gửi đơn yêu cầu thi hành án như quan điểm thứ nhất. Bảo đảm thực hiện Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người được cấp dưỡng, pháp luật cũng đã ghi nhận một số biện pháp và chế tài xử lý nhằm cưỡng chế, răn đe người có hành vi trốn tránh thực hiện nghĩa vụ, đảm bảo cho nghĩa vụ cấp dưỡng được thực thi hiệu quả hơn trên thực tế. Một là, ghi nhận quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thi hành án cấp dưỡng cho con phải thực hiện nghĩa vụ. Quyền này được quy định cụ thể tại Điều 119 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Hai là, ghi nhận biện pháp trừ vào thu nhập của người có nghĩa vụ tại Điều 78 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014. Ba là, biện pháp xử phạt vi phạm hành chính, tại Điều 54 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2 của Chính phủ thì người có nghĩa vụ cấp dưỡng mà trốn tránh hoặc từ chối nghĩa vụ cấp dưỡng thì sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính từ đồng đến đồng. Bốn là, chế tài xử lý hình sự được cụ thể tại Điều 186 BLHS năm 2015 quy định “Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng”. 2. Một số kiến nghị Thứ nhất Bổ sung giải thích cho hai cụm từ con đã thành niên “không có khả năng lao động” và “không có tài sản để tự nuôi mình” quy định tại Điều 110 Luật Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Theo tác giả, cần bổ sung giải thích như sau - Con đã thành niên “không có khả năng lao động” là người từ đủ 18 tuổi trở lên nhưng có khiếm khuyết về thể chất hoặc tinh thần; bị bệnh tật thường xuyên đau ốm; dành toàn bộ thời gian tham gia học tập tại các cơ sở đạo tạo như trường đại học, cao đẳng, trung cấp, dạy nghề… dẫn đến không thể tham gia vào các quan hệ lao động tạo thu nhập đủ để nuôi sống bản thân. - Con đã thành niên “không có tài sản để tự nuôi mình” là con từ đủ 18 tuổi trở lên, thực tế không có tài sản hoặc có tài sản nhưng tài sản đó không sinh lợi hoặc có sinh lợi và đã khai thác theo khả năng của chủ sở hữu nhưng vẫn không đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của mình. Thứ hai Cần quy định về thời điểm thực hiện việc cấp dưỡng cho con như sau Thời điểm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của họ thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thời điểm đó được tính từ ngày ghi trong bản án, quyết định của Tòa án. Thứ ba Trường hợp đương sự không thỏa thuận được mức cấp dưỡng thì Tòa án căn cứ vào thu nhập thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng, mức sinh hoạt trung bình tại địa phương nơi người được cấp dưỡng cư trú mà quyết định mức cấp dưỡng nhưng mức cấp dưỡng không thấp hơn hoặc bằng 01 tháng lương cơ bản hoặc không thấp hơn 1/3 mức thu nhận bình quân trong 03 tháng liền kề với tháng mà Tòa án ra bản án hoặc quyết định của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Thứ tư Theo ý kiến của tác giả, nên bãi bỏ khoản 2 Điều 54 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP và giữ lại quy định tại điểm a khoản 3 điều 52 Nghị định 110/2013/NĐ-CP. Bởi lẽ, mức xử phạt trong khoản 2 Điều 54 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP thì từ đồng đến đồng là quá nhẹ không đủ sức răn đe, trong khi đó mức xử phạt tại điểm a khoản 3 Điều 52 Nghị định 110/2013/NĐ-CP là từ đồng đến đồng. Mức phạt này tương đối phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của nước ta hiện nay cũng như đủ sức răn đe người có hành vi vi phạm tránh tình trạng tái diễn hành vi vi phạm nhiều lần trên thực tế. Qua học tập, nghiên cứu và thực tiễn áp dụng pháp luật trong thời gian qua qua, tác giả nhận thấy còn một vài vướng mắc nêu trên. Qua bài viết này tác giả rất mong sớm nhận được sự phản hồi của các đọc giả và mong thời gian tới sẽ có những hướng dẫn, bổ sung kịp thời để công tác xét xử được thống nhất./. TAND huyện Trần Đề, Sóc Trăng xét xử vụ án dân sự “Về thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn” - Ảnh Lý Thị Thanh Hoa Xác định mức cấp dưỡng cho con thế nào sau ly hôn?Mức cấp dưỡng nuôi con tối thiểu $YEAR. Khi cha mẹ ly hôn, các bên vẫn phải có nghĩa vụ chăm sóc con cái theo quy định của pháp luật. Trong đó bao gồm cả việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Vậy cấp dưỡng là gì? Mức cấp dưỡng cho con tối thiểu năm 2023 là bao nhiêu? Mời bạn đọc tham khảo bài viết dưới đây cùng định về tiền cấp dưỡng nuôi con 20231. Cấp dưỡng là gì?Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi Mức cấp dưỡng nuôi con tối thiểu 20233. Sắp có mức cấp dưỡng nuôi con tối thiểu 2023?Quy định về tiền cấp dưỡng nuôi con 20231. Cấp dưỡng là gì?Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi dưỡng được định nghĩa trong Khoản 24 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 như sauCấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về nghĩa vụ của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn như sau2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho vậy, qua các quy định trên có thể hiểu Cấp dưỡng cho con là việc cha mẹ có nghĩa vụ đóp góp tiền hoặc tài sản để nuôi dưỡng con chưa thành niên, con không có khả năng lao động hoặc khó khăn túng thiếu... sau khi ly 107 Luật HNGĐ quy địnhNghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người trường hợp người có nghĩa vụ nuôi dưỡng trốn tránh nghĩa vụ thì theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, Tòa án buộc người đó phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy Mức cấp dưỡng nuôi con tối thiểu 2023Hình ảnh minh họa về cấp dưỡng nuôi con sau ly hônCăn cứ Điều 116 Luật HNGĐ quy định về mức cấp dưỡng như sau1. Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải vậy, hiện nay pháp luật chưa có quy định chi tiết về mức cấp dưỡng tối thiểu mà trao quyền cho các bên có liên quan, cụ thể ở đây là cha mẹ tự thỏa thuận về số tiền cấp dưỡng cho căn cứ vào sự đồng thuận của 2 bên và thu nhập của người không nuôi con để quyết định mức cấp dưỡng cho con. Vì nếu quy định chi tiết mà mức cấp dưỡng lại quá cao, quá khả năng chi trả của người cấp dưỡng thì rõ ràng là việc cấp dưỡng sẽ không thể thực hiện được trên thực tế, hoặc cấp dưỡng sẽ không lâu dài, ổn Sắp có mức cấp dưỡng nuôi con tối thiểu 2023?Mặc dù pháp luật nước ta chưa có văn bản quy định chi tiết về mức cấp dưỡng tối thiểu cho con là bao nhiên, hiện nay Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao đang lấy ý kiến của nhân dân đối với dự thảo Nghị quyết hướng dẫn một số vấn đề về giải quyết tranh chấp hôn nhân và gia đình, trong đó, đề xuất mới về tiền cấp dưỡng nuôi con khi ly hôn như sau- Theo dự thảo, tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi phí cho việc nuôi dưỡng và học hành của con và do các bên thoả Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì Tòa án quyết định mức cấp dưỡng ít nhất bằng 2/3 mức lương cơ sở và không được thấp hơn 30% mức thu nhập bình quân của người có nghĩa vụ cấp dưỡng trong 06 tháng liền Năm 2023, mức lương cơ sở đang áp dụng là đồng/tháng. Như vậy, nếu trường hợp Tòa án quyết định mức cấp dưỡng thì sẽ không thấp hơn đồng/ Ngoài ra, dự thảo cũng đề xuất phương thức cấp dưỡng do các bên thoả thuận định kỳ hằng tháng, hằng quý, nửa năm, hằng năm hoặc một Trường hợp các bên không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định phương thức cấp dưỡng hằng tháng hoặc phương thức khác phù hợp với nhu cầu, lợi ích của con và điều kiện của người cấp thảo quy định này thực sự rất sáng tạo, thể hiện sự bám sát với thực tế của các quy định pháp luật. Với mức cấp dưỡng ít nhất bằng 2/3 mức lương cơ sở và không được thấp hơn 30% mức thu nhập bình quân của người có nghĩa vụ cấp dưỡng trong 06 tháng liền kề thì cha mẹ hoàn toàn có đủ khả năng chi trả, chu cấp cho con thời quy định này cũng đảm bảo quyền lợi tối thiểu nhất trên phương diện pháp lý cho trẻ em - đối tượng cần được chăm sóc, yêu thương, còn non nớt và dễ bị tổn thương khi cha mẹ ly rằng quy định nhân văn mang đậm tính hiện thực và tiến bộ xã hội này sẽ sớm có hiệu lực chính bạn đọc tham khảo các bài viết liên quan tại mục Hỏi đáp pháp luật và của nào bị tước quyền nuôi con 2023?Điều kiện để có quyền nuôi con khi ly hôn 2023Cha mẹ ly hôn phải cấp dưỡng cho con đến bao nhiêu tuổi?Mức cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn 2023 Tôi và chồng kết hôn được 05 năm, trong quá trình chung sống có một con chung. Tuy nhiên, việc chung sống không hòa hợp, nhiều lần cãi vã, nhận thấy không thể tiếp tục nên chúng tôi quyết định ly hôn. Quyền nuôi con thuộc về tôi. Vậy tôi có quyền yêu cầu chồng cấp dưỡng nuôi hay không? Mức cấp dưỡng là bao nhiêu? Quy định về cấp dưỡng, nghĩa vụ cấp dưỡng Ai có quyền thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng? Mức cấp dưỡng là bao nhiêu? Quy định về cấp dưỡng, nghĩa vụ cấp dưỡngTheo khoản 24 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau"Điều 3. Giải thích từ ngữ[...]24. Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của Luật này[...]"Tại Điều 107 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng như sau"Điều 107. Nghĩa vụ cấp dưỡng1. Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và con; giữa anh, chị, em với nhau; giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột; giữa vợ và chồng theo quy định của Luật vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người Trong trường hợp người có nghĩa vụ nuôi dưỡng trốn tránh nghĩa vụ thì theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức được quy định tại Điều 119 của Luật này, Tòa án buộc người đó phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của Luật này."Trường hợp sau khi ly hôn, cấp dưỡng là một trong các nghĩa vụ mà cha mẹ phải thực hiện đối với con tại Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 và Điều 110 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, cụ thể"Điều 82. Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn1. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người 110. Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với conCha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con."Như vậy, khi cha mẹ ly hôn thì cấp dưỡng là một trong các nghĩa vụ mà cha, mẹ cần thực hiện đối với con chưa thành niên, con không có khả năng lao động, không sống chung hoăc sống chung nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con hoặc trường hợp cha mẹ ly hôn không trực tiếp nuôi dưỡng dưỡng nuôi conAi có quyền thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng?Theo Điều 119 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về người có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng như sau"Điều 119. Người có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng1. Người được cấp dưỡng, cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đóa Người thân thích;b Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;c Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;d Hội liên hiệp phụ Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện hành vi trốn tránh thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức quy định tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều này yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó."Vậy người được cấp dưỡng, cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó có quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó. Theo quy định trên, bạn là mẹ của bé nên bạn có quyền yếu cầu Tòa án thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của cha đối với cấp dưỡng là bao nhiêu?Theo Điều 116 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về mức cấp dưỡng như sau"Điều 116. Mức cấp dưỡng1. Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết."Như vậy, không có quy định cụ thể mức cấp dưỡng bao nhiêu. Tuy nhiên, đối với trường hợp của bạn, sau ly hôn bạn và chồng bạn có thể thỏa thuận về mức cấp dưỡng căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của chồng bạn và nhu cầu thiết yếu của con bạn. Nếu hai bên không thỏa thuận được thì bạn có thể yêu cầu Tòa án giải quyết. Đi đến trang Tìm kiếm nội dung Tư vấn pháp luật - Nghĩa vụ cấp dưỡng 517 lượt xem Lưu bài viết Bài viết này có hữu ích với bạn không? Tôi và vợ tôi đã ly hôn theo quyết định của toà trong quyết định có ghi rõ Về nợ khi ly hôn tôi đã tình nguyện không truy cứu các khoản nợ mà chúng tôi từng vay mượn trong làm ăn, tôi đã nhận chi trả các khoản nợ đó mà không đòi hỏi gì từ phía cô con cái chúng tôi có một con chung, và bé sinh năm 2008 được mẹ nuôi dưỡng. Tôi đã tự nguyện cấp dưỡng cho bé với số tiền hằng tháng là năm triệu đồng chẵn. Và tôi đã thực hiện cấp đưỡng được một thời gian tại phòng thi hành nhiên tình hình kinh tế hiện tại của tôi gặp rất nhiều khó khăn kể từ khi ly hôn nên khả năng hiện tại là không thể chu cấp cho bé theo nguyện vọng của mình được. Vậy tôi muốn thay đổi cấp dưỡng cho bé thì tôi phải cần những thủ tục gì? Với bé dưới 36 tháng tuổi thì pháp luật qui định mức cấp dưỡng tối thiểu là bao nhiêu? Tôi chân thành cảm ơn tòa soạn Dân trí. Bạn đọc có email truongdinhhs lời Theo quy định tại “Điều 53 - Luật Hôn nhân và gia đình có quy định về mức cấp dưỡng như sau "Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng... Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu tòa án giải quyết”Và Nghị quyết 02/2000 Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, tại “11. Việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn Điều 92.Khi áp dụng quy định tại Điều 92 cần chú ý một số điểm sau đâya. Theo quy định tại khoản 1 Điều 92 thì người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Đây là nghĩa vụ của cha, mẹ; do đó, không phân biệt người trực tiếp nuôi con có khả năng kinh tế hay không, người không trực tiếp nuôi con vẫn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi trường hợp người trực tiếp nuôi con không yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cấp dưỡng vì lý do nào đó thì Toà án cần giải thích cho họ hiểu rằng việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là quyền lợi của con để họ biết nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con. Nếu xét thấy việc họ không yêu cầu cấp dưỡng là tự nguyện, họ có đầy đủ khả năng, điều kiện nuôi dưỡng con thì Toà án không buộc bên kia phải cấp dưỡng nuôi Tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của con và do các bên thoả thuận. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì tuỳ vào từng trường hợp cụ thể, vào khả năng của mỗi bên mà quyết định mức cấp dưỡng nuôi con cho hợp Về phương thức cấp dưỡng do các bên thoả thuận định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì Toà án quyết định phương thức cấp dưỡng định kỳ hàng tháng.”Theo quy định trên, bạn có thể thỏa thuận thay đổi mức cấp dưỡng với người nuôi dưỡng; nếu hai bên không thỏa thuận được thì bạn có quyền khởi kiện ra Tòa án yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng. Tuy nhiên, việc bạn đang băn khoăn là mức tiền cấp dưỡng tối thiểu? Theo đó, việc quyết định mức cấp dưỡng thì Tòa án căn cứ vào sự tự nguyện của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Tuy nhiên, nếu người có nghĩa vụ cấp dưỡng không tự nguyện, Tòa án sẽ quyết định mức cấp dưỡng. Khi Tòa án quyết định mức tiền cấp dưỡng sẽ cân nhắc tới điều kiện của người có nghĩa vụ cấp dưỡng, tình hình thực tế của đời sống sinh hoạt của cháu nhỏ; Tòa án cũng sẽ căn cứ vào mức thu nhập của người cấp dưỡng, vì vậy mức cấp dưỡng thường không cao hơn mức thu nhập của người cấp sư Nguyễn Hồng BáchChủ tịch Hội đồng thành viên Công ty luật hợp danh Hồng Bách và Cộng sự Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội.Địa chỉ Số 408 Trần Khát Chân, quận Hai Bà Trưng, TP Hà thoại - 0984049999, Fax bach Website

quy định về mức cấp dưỡng nuôi con